Tương lai của Nông nghiệp thông minh: Con đường chuyển đổi nông nghiệp bền vững của Việt Nam

Ngành nông nghiệp là một trong những trụ cột chính của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế và đóng góp vào GDP có xu hướng giảm nhẹ do Việt Nam chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, nhưng ngành này vẫn tiếp tục tăng trưởng, với CAGR là 7,2% từ năm 2012-2023, đạt 1,22 nghìn tỷ đồng và chiếm 12% GDP vào năm 2023

10Th92024

B&Company

Nội dung nổi bật / Đánh giá ngành / Tin tức & Báo cáo mới nhất

Bình luận: 1 bình luận.

Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam

Nông nghiệp[1] Ngành công nghiệp là một trong những trụ cột chính của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế và đóng góp vào GDP có xu hướng giảm nhẹ do Việt Nam chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, nhưng ngành này vẫn tiếp tục tăng trưởng, với tốc độ CAGR là 7,2% từ năm 2012-2023, đạt 1,22 nghìn tỷ đồng và chiếm 12% GDP vào năm 2023.

Biểu đồ 1. Đóng góp và tỷ trọng GDP của Nông nghiệp năm 2012-23

Contribution and share of GDP of Agriculture in 2012-23

Nguồn: GSO (2024)

Ngoài ra, vai trò quan trọng của ngành này cũng được thể hiện qua tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Việt Nam hiện đang đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 toàn cầu về xuất khẩu nông sản.[2]. Năm 2023, nông sản Việt Nam ghi nhận thặng dư thương mại hơn $12 tỷ[3]với các mặt hàng chủ lực như thủy sản, trái cây, rau quả, cà phê, hạt điều, gạo, v.v.

Biểu đồ 2. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực năm 2018-23

Đơn vị: Tril. USD

Nguồn: GSO (2024)

Bên cạnh những điểm sáng, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất định. Trước hết, ngành nông nghiệp vẫn được quản lý theo phương thức canh tác nhỏ lẻ, dẫn đến rủi ro cao, hiệu quả thấp, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của hàng hóa thấp. Hiện nay, xuất khẩu nông sản chủ yếu dựa vào sức cạnh tranh về giá ở phân khúc chất lượng thấp, chưa dựa vào lợi thế cạnh tranh về chất lượng. Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong sản xuất, nhất là trong bối cảnh các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, rào cản kỹ thuật liên quan đến môi trường ngày càng cao (ví dụ Nhật Bản, EU, v.v.) ở cả thị trường trong nước và nước ngoài[4].

Thứ hai, Nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ biến đổi khí hậu. Dự báo nếu mực nước biển dâng cao 1m, năng suất trồng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long có thể giảm 40,5%. Hơn nữa, phần lớn Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long có thể bị ngập do mực nước biển dâng cao vào năm 2070, ảnh hưởng đến ngành thủy sản[5].

Thứ ba, thiếu hụt lao động chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo Bộ NN&PTNT năm 2021, 57%[6] của lực lượng lao động vẫn còn chưa qua đào tạo, làm việc theo kinh nghiệm và theo mùa vụ, thiếu lao động có trình độ cao. Về độ tuổi lao động, phần lớn vẫn là người cao tuổi, số lao động từ 50 tuổi trở lên chiếm 42,8%[7] vào năm 2021. Điều này dẫn đến khó khăn trong đào tạo, chuyển giao công nghệ, v.v.

Xu hướng nông nghiệp thông minh tại Việt Nam

Nông nghiệp thông minh có thể được coi là một giải pháp tối ưu để giải quyết những thách thức nêu trên của ngành nông nghiệp tại Việt Nam. Hiện tại chưa có định nghĩa chính thức cụ thể nhưng nông nghiệp thông minh có thể được hiểu rộng rãi là việc ứng dụng các công nghệ ICT như thiết bị chính xác, IoT, cảm biến, quản lý dữ liệu lớn, v.v. vào các quy trình nông nghiệp. Việc áp dụng nông nghiệp thông minh giúp các bên liên quan (1) gia tăng giá trị bằng cách đưa ra các quyết định khai thác và quản lý hiệu quả hơn, (2) tăng cường kết nối giữa người sản xuất và thông tin, quản lý sản xuất tốt hơn; và (3) nâng cao hiệu quả đầu tư và giảm thiểu tác hại đến môi trường.

Cụ thể, một số ứng dụng của nông nghiệp thông minh bao gồm việc ứng dụng công nghệ cao (ví dụ như IoT, tự động hóa, v.v.) vào sản xuất và canh tác để tối ưu hóa từng phần của quá trình sản xuất (phân bón, tưới tiêu, xử lý bảo vệ thực vật, v.v.), hoặc giảm ô nhiễm môi trường, cũng như tự động ứng phó với biến đổi khí hậu. Ngoài ra, mô hình nông nghiệp thông minh cũng có thể được áp dụng cho nâng cao sự tích hợp chuỗi cung ứng và kết nối thông tinVí dụ, việc thành lập các nền tảng số để kết nối với các dịch vụ đầu vào sản xuất như hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu, dịch vụ dự báo thời tiết, nhu cầu thị trường và tiêu chuẩn, v.v. có thể cung cấp cho nông dân nhiều thông tin hơn để đưa ra quyết định sản xuất chính xác. Hơn nữa, các công nghệ như blockchain, IoT, AI, v.v. cũng có thể được áp dụng để quản lý chuỗi giá trị và truy xuất nguồn gốc từ trang trại đến bàn ăn.

Về định hướng chính sách, nông nghiệp thông minh được xác định là một giải pháp tối ưu cho ngành nông nghiệp trong Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Nghị quyết 19/NQ-TW/2022). Ngoài ra, văn kiện chiến lược cũng nêu rõ Việt Nam thúc đẩy việc thành lập cơ sở dữ liệu nông nghiệp quốc gia và tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia về nhân khẩu, kinh tế, môi trường, khí tượng, thủy văn, làm cơ sở phân tích, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư chuyển đổi sang nông nghiệp thông minh.

Về ví dụ thực tế, đã có những nỗ lực ứng dụng nông nghiệp thông minh ở một số địa phương. Ví dụ như Đà Lạt đã triển khai hệ thống nhà kính trồng trọt sử dụng đèn LED, trồng rau thủy canh tự động, góp phần cung cấp sản phẩm nông nghiệp sạch cũng như phục vụ ngành du lịch. Ngoài ra còn có hệ thống tưới tiêu hoàn toàn tự động cho các vườn hoa, với các thiết bị cảm biến cung cấp thông tin về độ ẩm, lượng nước tưới và thời gian tưới. Ngoài ra còn có các sáng kiến ứng dụng giải pháp quản lý nước thông minh trong sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, Trường Đại học Trà Vinh, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, đã thí điểm tưới ướt và khô xen kẽ dựa trên IoT để giảm phát thải khí mê-tan trên các cánh đồng lúa.

Về nông nghiệp thông minh trong tích hợp chuỗi cung ứng và kết nối thông tin, điều này thể hiện rõ trong sáng kiến của VN Check – nền tảng truy xuất nguồn gốc ứng dụng công nghệ IoT và Blockchain để truy xuất nguồn gốc nông sản và dược phẩm. Sáng kiến này được hỗ trợ công nghệ từ các tập đoàn lớn như Google, FPT, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Univer Farm Organics và SotaNext. VNCheck cung cấp các giải pháp dữ liệu và truy xuất nguồn gốc cho các doanh nghiệp nông nghiệp và thực phẩm, sử dụng công nghệ IoT để thu thập dữ liệu thời gian thực được xử lý thông qua hệ thống hợp đồng thông minh an toàn, minh bạch. Hơn nữa, việc theo dõi sản phẩm cho thị trường trong nước và xuất khẩu được thực hiện thông qua hệ thống mã QR và mã vạch của công ty.

Việt Nam cũng ghi nhận đầu tư nước ngoài tích cực, bao gồm cả từ Nhật Bản, vào lĩnh vực này. Theo một [10] qua Seiko Ideas Corp[11], với hiệp định CPTPP, Nhật Bản đã quyết định đẩy nhanh các dự án đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam với tư cách là thành viên của CPTPP và là quốc gia có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn. Bằng cách đó, các công ty Nhật Bản có thể sản xuất hàng hóa và xuất khẩu nông sản trở lại Nhật Bản để hưởng mức thuế nhập khẩu 0%. Đồng thời, các công ty Nhật Bản có thể đáp ứng yêu cầu của TPP là sản phẩm xuất khẩu phải có 70% nguyên liệu có nguồn gốc từ trong khối TPP[12]. Có một số dự án hợp tác đáng chú ý bao gồm việc triển khai các dịch vụ đám mây Akisai của Fujitsu CNTT FujitsuTập đoàn FPT năm 2014 để hỗ trợ quản lý nông nghiệp Việt Nam năm 2015-2016[13]; các dự án với chính quyền tỉnh Lâm Đồng bao gồm dự án phát triển chợ hoa chất lượng cao với hệ thống phân phối hiệu quả của Công ty OTA Kakivà dự án phát triển chất lượng cao của công ty.

Thách thức

Mặc dù đã có những nỗ lực ban đầu, ngành nông nghiệp thông minh ở Việt Nam vẫn phải đối mặt với những thách thức lớn. Trước hết, khả năng cung cấp công nghệ cho nông nghiệp thông minh vẫn còn hạn chế[14]. Do đó, các doanh nghiệp cơ khí trong nước chỉ đáp ứng được 32% nhu cầu máy nông nghiệp, trong khi khoảng 60-70%[15] thị phần hiện đang được cung cấp bởi các nhà sản xuất nước ngoài. Thứ hai, Cơ sở dữ liệu nông nghiệp chưa được thiết kế và số hóa đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng các công cụ dựa trên dữ liệu. Thứ ba, do chất lượng lao động thấp, người nông dân khó tiếp cận thông tin và sử dụng công nghệ tiên tiến. Do đó, cần có giải pháp đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với tập quán canh tác và trình độ học vấn của người nông dân[16]. Thứ tư, có những khó khăn về tài chính trong việc đầu tư ứng dụng công nghệ vào các doanh nghiệp nông nghiệp. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, 43% doanh nghiệp nông nghiệp vẫn gặp khó khăn trong việc đầu tư vào chuyển đổi số. Nguyên nhân là do bản chất quy mô nhỏ, chủ yếu là hộ gia đình nên khi đầu tư sẽ phải chịu chi phí cao, biên lợi nhuận thấp[17].

Triển vọng trong tương lai

Với tất cả những điểm đã nêu ở trên, thị trường này vẫn có thể được coi là có nhiều dư địa để phát triển và nhiều cơ hội. Thứ nhất, nhu cầu về các ứng dụng công nghệ, ưu tiên nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, được coi là một trong những giải pháp cấp bách trong bối cảnh tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, môi trường ngày càng phức tạp và khó lường[18]. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp, nông nghiệp thông minh với khí hậu (CSA) là phương pháp sản xuất nông nghiệp có thể ứng phó với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu để ổn định an ninh lương thực và đạt được phát triển bền vững. CSA dựa trên ba trụ cột chính (1) Năng suất và tăng trưởng thu nhập bền vững cho người sản xuất; (2) Thích ứng với biến đổi khí hậu và; (3) Giảm (hoặc loại bỏ) phát thải khí nhà kính. Theo đó, một số hoạt động của CSA trong canh tác cây trồng bao gồm quản lý nước và tưới tiêu thông minh, áp dụng các giống cây trồng cải tiến, giảm xói mòn đất[19], v.v. Đối với ngành chăn nuôi, các ví dụ về ứng dụng CSA bao gồm việc sử dụng công nghệ sinh học, chăn nuôi tập trung trong kho lạnh, các kỹ thuật chăn nuôi giúp giảm phát thải GH[20]Về định hướng tương ứng của Việt Nam, Nghị quyết 19/NQ-TW/2022 đặt mục tiêu phát triển CSA, giảm ô nhiễm môi trường nông thôn, phấn đấu giảm phát thải khí nhà kính 10% so với năm 2020. Bên cạnh đó, Nghị quyết 20-NQ/TW-2022 nhấn mạnh ưu đãi, hỗ trợ hợp tác xã trong ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển mô hình sản xuất bền vững, trong đó có CSA và chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng các mô hình thông minh để đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp an toàn, chất lượng cao đang ngày càng gia tăng tại Việt Nam cũng như trên thị trường quốc tế, đặc biệt là khi nhận thức của người tiêu dùng về các yếu tố sức khỏe, vệ sinh đã tăng lên sau đại dịch COVID-19. Để đáp ứng nhu cầu này, các cơ hội hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực này đang được thúc đẩy mạnh mẽ. Hiện nay, Nhật Bản đang hỗ trợ Việt Nam thực hiện chiến lược nông nghiệp đến năm 2020, thông qua việc thay đổi tư duy từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”, nhằm đạt được mục tiêu “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân thông minh”.[21].

Một khía cạnh quan trọng khác là phát triển nông nghiệp thông minh theo hướng nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị nông nghiệp. Theo Nghị quyết 19/NQ-TW/2022, Việt Nam đang thúc đẩy phát triển nông nghiệp thông minh bằng cách ứng dụng công nghệ số, phát triển quản lý chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp bằng ứng dụng blockchain và quản lý sản phẩm nông nghiệp từ khâu sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản, vận chuyển, chế biến và tiêu thụ để tạo sự minh bạch thông tin và đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Điều này được kỳ vọng sẽ góp phần tăng cường kết nối thông tin giữa các bên liên quan và gắn kết sản xuất nông nghiệp với nhu cầu của thị trường.

Tóm lại, phát triển nông nghiệp thông minh là một trong những hướng đi quan trọng để ngành nông nghiệp Việt Nam ứng phó với rủi ro biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và đáp ứng nhu cầu ngày càng thay đổi của người tiêu dùng.

[1] Bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt cá và lâm nghiệp

[2] VOV (2024), Việt Nam đứng thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông sảnĐánh giá>

[3] ThoibaoTaiChinhVietnam (2023), Năm 2023, xuất siêu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đạt mức kỷ lục.Đánh giá>

[4] DaiBieuNhanDan (2024), Nông nghiệp thông minh là xu hướng tất yếu.Đánh giá>

[5] CIAT, Ngân hàng Thế giới (2017), Nông nghiệp thông minh với khí hậu tại Việt Nam. Hồ sơ quốc gia CSA cho loạt bài Châu Á. Trung tâm quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới (CIAT); Ngân hàng Thế giới. Washington, DC 28 trang.Đánh giá>

[6] Thúy Hằng (2023), Xây dựng Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.Đánh giá>

[7] Giống như ghi chú 5

[8] Agridrone (2023), Nông nghiệp thông minh tại Việt Nam.Đánh giá>

[9] Đào Thế Anh, Phạm Công Nghiệp (2022), Nông nghiệp thông minh cho trang trại nhỏ ở Việt Nam: Cơ hội, thách thức và giải pháp chính sách. Tạp chí Chính sách Nông nghiệp FFTC.Đánh giá>

[10] Báo cáo về tác động của TPP (Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương) đến nền kinh tế Nhật Bản và hợp tác nông nghiệp giữa Nhật Bản và Việt Nam, trích trong VCCI (2016), Nhật Bản đang ráo riết đầu tư vốn vào nông nghiệp Việt NamĐánh giá>

[11] Công ty tư vấn đầu tư Nhật Bản

[12] VCCI (2016), Nhật Bản đang ráo riết đầu tư vốn vào nông nghiệp Việt NamĐánh giá>

[13] Trang web đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015). Nông nghiệp công nghệ cao thu hút FDI của Nhật Bản.Đánh giá>

[14] Lê Anh (2023), Phát triển nông nghiệp thông minh tại Việt Nam theo hướng bền vữngĐánh giá>

[15] VnEconomy (2024), Việt Nam là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị nông nghiệpĐánh giá>

[16] VnEconomy (2024), Giải pháp nào để nông nghiệp Việt Nam trở thành nông nghiệp thông minh?Đánh giá>.

[17] Giống như ghi chú 16

[18] Bộ Thông tin và Truyền thông (2020), Nông nghiệp thông minh: Giải pháp cho thách thức về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam.Đánh giá>

[19] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2021), Nông nghiệp thông minh thích ứng với khí hậu.Đánh giá>

[20] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2021), Hướng dẫn về Nông nghiệp thông minh thích ứng với khí hậu.Đánh giá>

[21] Vietnam+ (2023), Nhật Bản hỗ trợ Việt Nam phát triển nền kinh tế nông nghiệp xanh.Đánh giá>

 

Công ty TNHH B&Company

Công ty Nhật Bản đầu tiên chuyên về nghiên cứu thị trường tại Việt Nam từ năm 2008. Chúng tôi cung cấp nhiều dịch vụ bao gồm báo cáo ngành, phỏng vấn ngành, khảo sát người tiêu dùng, kết nối doanh nghiệp. Ngoài ra, chúng tôi gần đây đã phát triển cơ sở dữ liệu gồm hơn 900.000 công ty tại Việt Nam, có thể được sử dụng để tìm kiếm đối tác và phân tích thị trường.

Vui lòng liên hệ với chúng tôi nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào.

info@b-company.jp + (84) 28 3910 3913

 

Đọc các bài viết khác

 

  • Tất cả
  • Nông nghiệp
  • Việc kinh doanh
  • Kết nối doanh nghiệp
  • Thuộc kinh tế
  • Điện & Điện tử
  • Năng lượng
  • Môi trường
  • Thiết bị & Thiết bị
  • Triển lãm
  • Thực phẩm & Đồ uống
  • Sự đầu tư
  • Chế tạo

Bài viết liên quan

Thanh bên:
ĐĂNG KÝ NHẬN BẢN TIN