
Ngày:
Qua:
Đánh giá ngành
Bình luận: Không có bình luận.
06-10-2014
Năm 2013, 80% tổng lượng tiêu thụ được tạo ra từ các kênh bán hàng truyền thống như chợ và cửa hàng tạp hóa. Mặt khác, nhu cầu về các kênh bán hàng hiện đại đang tăng lên, khi đầu tư nước ngoài vào thị trường ngày càng tăng, việc sử dụng các cửa hàng tiện lợi và siêu thị mini đã dần trở nên phổ biến.
Tiếp theo các thương hiệu lâu đời như Shop & Go (Singapore - 2005), Circle K (Mỹ - 2008), các thương hiệu mới hơn như FamilyMart (Nhật Bản - 2010), MiniStop (Nhật Bản - 2011), B'sMart (Thái Lan - 2013) cũng đã thâm nhập vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Năm 2014, Shop & Go trở thành chuỗi cửa hàng tiện lợi lớn nhất về số lượng cửa hàng (108), với tốc độ mở rộng 2-3 cửa hàng/tháng, dự kiến đến cuối năm 2014 sẽ có 130 cửa hàng. Ngoài ra, các công ty khác cũng tiếp tục mở rộng đầu tư. Như B'sMart có kế hoạch thâu tóm 300 cửa hàng vào năm 2018; hay việc FamilyMart tiếp tục tái đầu tư mặc dù đã từng buộc phải thu hẹp quy mô, cho thấy sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Cụ thể, năm 2010, FamilyMart đã thâm nhập vào thị trường bán lẻ Việt Nam; 2 năm sau, công ty hủy hợp đồng liên doanh vì đối tác kinh doanh của công ty đã bị một công ty Thái Lan mua lại, tất cả các cửa hàng trước đó đều được đổi tên thành B'sMart. Sau đó, FamilyMart quay trở lại thị trường với kế hoạch mở rộng hệ thống cửa hàng của mình một lần nữa. Kết quả là có 57 cửa hàng Family Mart theo hình thức nhượng quyền vào năm 2014.
Không chỉ các công ty nước ngoài mà cả các công ty trong nước cũng đầu tư vào ngành cửa hàng tiện lợi. Ví dụ, siêu thị Hapro đã mở 20 cửa hàng tiện lợi và 13 siêu thị mini. Mặc dù tất cả các công ty trong nước đều đặt mục tiêu tăng thị phần về số lượng cửa hàng, ngay cả một công ty hàng đầu như Hapro cũng chỉ chiếm 5% thị phần. Nguyên nhân chính là các công ty nước ngoài có lợi thế về kinh nghiệm kinh doanh và năng lực tài chính. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài có thể mở cửa hàng ở những vị trí thuận tiện, thì hơn một nửa số nhà đầu tư trong nước gặp khó khăn về tài chính và thiếu chuyên nghiệp trong kỹ năng chăm sóc khách hàng cũng như trưng bày sản phẩm, v.v. Ví dụ, do hệ thống phân phối không hiệu quả, G7 không có lợi thế cạnh tranh về cả giá cả và sự đa dạng của sản phẩm. Năm 2006, công ty sở hữu 500 cửa hàng; tuy nhiên, hơn một nửa trong số đó đã được bán vào năm 2010. Sau đó, vào năm 2011, G7Mart hợp tác với Ministop để thành lập G7-Ministop, hiện các cửa hàng G7-Ministop được vận hành dưới thương hiệu Ministop.
Các công ty nước ngoài chuyên nghiệp cao đang thống trị thị trường cửa hàng tiện lợi tại Việt Nam và sức cạnh tranh trong ngành được tăng cường. Tuy nhiên, với mục tiêu doanh số của Chính phủ tạo ra thông qua các kênh hiện đại đến năm 2020 là 40% tổng doanh số, tương đương $38 tỷ; và kỳ vọng về việc cải thiện các thủ tục pháp lý để đầu tư nước ngoài vào ngành này, đã được mở ra từ năm 2009 nhưng vẫn cản trở nhiều nhà đầu tư vì các quan chức địa phương xem xét đầu tư nước ngoài theo từng trường hợp; nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài vẫn được kỳ vọng sẽ tồn tại.
Thương hiệu | Quốc gia | Hình thức | Số lượng cửa hàng |
Mua sắm & Đi | Singapore | Cửa hàng tiện lợi | 108 |
Siêu thị B | Thái Lan | Cửa hàng tiện lợi | 96 |
Vòng tròn K | Hoa Kỳ | Cửa hàng tiện lợi | 82 |
Siêu thị gia đình | Nhật Bản | Cửa hàng tiện lợi | 57 |
Cửa hàng Ministop | Nhật Bản | Cửa hàng tiện lợi | 17 |
Hapro | Vietnam | Cửa hàng tiện lợi Siêu thị mini |
20 13 |
Co.op Thực phẩm | Vietnam | Siêu thị mini | 56 |
Thực phẩm Satra | Vietnam | Siêu thị mini | 45 |
C-Express & Chợ Mới | Tiếng Pháp | Siêu thị mini | 10 |
Công ty B&Company Việt Nam