
Đánh giá ngành / Tin tức & Báo cáo mới nhất
Bình luận: Không có bình luận.
Rác thải nhựa: Nguồn tài nguyên lớn tại Việt Nam
Việt Nam có nhu cầu sử dụng nhựa rất cao, sử dụng khoảng 3,9 triệu tấn nhựa PET, LDPE, HDPE, PP mỗi năm[1], dẫn đến lượng rác thải lớn. Tuy nhiên, chỉ có một số ít được tái chế. Như thể hiện trong Hình 1, số lượng rác thải nhựa tái chế ở một số nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn còn hạn chế. Năm 2021, chỉ có 817,5 nghìn tấn (25%) được tái chế, trong khi đó, Việt Nam thải ra khoảng 2,45 triệu tấn (75%)[2].
Xử lý rác thải nhựa tại một số nước ASEAN theo loại hình xử lý năm 2021
Rác thải nhựa tại Việt Nam được coi là nguồn tài nguyên kinh tế chưa được khai thác hết tiềm năng lợi nhuận. Nguyên nhân là do các lý do sau. Thứ nhất, các cơ sở tái chế kém hiệu quả và thiếu hụt, chủ yếu nằm ở các làng nghề, sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu. Các sản phẩm nhựa tái chế của họ chỉ có thể đáp ứng nhu cầu ở phân khúc thị trường giá rẻ. Trong khi đó, các doanh nghiệp tái chế chính thức chỉ có thể đáp ứng được 30%[3] của tổng nhu cầu tái chế. Hầu hết các công ty tái chế chủ yếu là các công ty trong nước. Năm 2021, Liên Minh là công ty tái chế nhựa có công suất tái chế lớn nhất, với 75.000 tấn mỗi năm[4]. Trong số 10 công ty lớn nhất trong ngành, chỉ có một liên doanh với Nhật Bản, QMT – Nhựa JP, với công suất sản xuất 25.000 tấn[5] mỗi năm.
Thứ hai, chất lượng đầu vào thấp nhưng tốn kém do tỷ lệ phân loại rác thải và tạp chất thấp, làm phân tán tài nguyên. Do đó, tỷ lệ thất thoát khi sử dụng rác thải nhựa trong nước để tái chế cao hơn so với nguồn nhập khẩu, ổn định hơn và sạch hơn[6]. Theo Duy Tân Tái Chế[7], tỷ lệ thất thoát từ nguồn thu gom làm đầu vào cho sản xuất tái chế có thể lên tới gần 40%, trong khi ở các nước khác trong EU, tỷ lệ này chỉ vào khoảng 10-20%.
Cuối cùng, chính sách pháp lý gần đây về quản lý rác thải nhựa, chẳng hạn như tiêu chuẩn cho các sản phẩm nhựa tái chế hoặc mức độ nội dung tái chế bắt buộc, thiếu hướng dẫn chi tiết để thực hiện hiệu quả. Do đó, các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu phải vật lộn để thiết lập mạng lưới thu gom hiệu quả và thực hiện trách nhiệm của họ đối với việc tái chế bao bì nhựa.
Tiềm năng của ngành công nghiệp tái chế nhựa trong tương lai
Trong thời gian tới, với nhu cầu lớn về nhựa và nguồn tài nguyên rác thải nhựa dồi dào, cùng xu hướng phát triển bền vững và chuyển đổi xanh, thị trường này được kỳ vọng sẽ có tiềm năng to lớn trong tương lai.[8] (Tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) dự kiến của quy mô thị trường 2024-2032: 7,6%[9])
Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của ngành công nghiệp nhựa tái chế để giải quyết các vấn đề liên quan đến sự phát triển của ngành công nghiệp nhựa và tình trạng quản lý rác thải nhựa không tốt. Một trong những nỗ lực chính là việc triển khai các quy định về Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) vào ngày 1/1/2024. Với EPR, các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu phải thu gom và tái chế bao bì nhựa đã qua sử dụng bằng cách tự tổ chức, ủy quyền cho bên thứ ba hoặc đóng góp tiền vào Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam[10].
Tỷ lệ tái chế bao bì nhựa[11], được điều chỉnh bởi EPR
KHÔNG. |
Danh sách sản phẩm và bao bì |
Tỷ lệ tái chế bắt buộc trong 3 năm đầu tiên |
1 |
PET cứng |
22% |
2 |
HDPE cứng, LDPE, PP, PS |
15% |
3 |
EPS cứng |
10% |
4 |
PVC cứng |
10% |
5 |
Bao bì nhựa cứng khác |
10% |
6 |
Bao bì linh hoạt vật liệu đơn |
10% |
7 |
Bao bì mềm đa vật liệu |
10% |
Nguồn: Phụ lục XXII, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP
Trong bối cảnh phát triển bền vững, ngành tái chế nhựa đang sẵn sàng tăng trưởng với nhu cầu ngày càng tăng đối với nhựa tái chế, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp phụ thuộc vào nhựa. Ví dụ, ngành bao bì đang tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế thân thiện với môi trường hơn và nhựa tái chế đã nổi lên như một giải pháp đầy hứa hẹn. Các thương hiệu lớn đang cam kết sử dụng bao bì bền vững như Coca-Cola, Lavie, TH, Pepsi và Nutifood. Điều này tạo ra cơ hội cho ngành tái chế đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Ngoài sản xuất trong nước, nhu cầu tái chế vật liệu nhựa dự kiến sẽ tăng mạnh do các sản phẩm nhựa tái chế của Việt Nam hướng đến xuất khẩu trong tương lai gần cần phải đạt tiêu chuẩn xanh. Ví dụ, EU yêu cầu đến năm 2025 phải tái chế 50% vật liệu nhựa bao bì và đến năm 2030 phải tái chế 55%[12].
Hơn nữa, vấn đề khó khăn trong việc phân loại rác thải tại nguồn để cung cấp đầu vào tốt hơn cho các hoạt động tái chế cũng đang được cải thiện khi nhận thức của cộng đồng tại Việt Nam về việc phân loại và thu gom rác thải đang tăng lên. Theo kết quả phỏng vấn người dân[13], 50% hộ gia đình hiện đang thực hiện phân loại rác tại nguồn, cao hơn đáng kể so với mức khoảng 31% của năm 2019.
Tóm lại, với tiềm năng lớn chưa được khai thác, xu hướng “chuyển đổi xanh” và những nỗ lực từ phía Chính phủ Việt Nam, ngành tái chế rác thải nhựa được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong tương lai.
[1] Báo cáo của WWF (2022), Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tái chế rác thải nhựa tại Việt Nam.
[2] Lê Xuân Đông (2022), Giải pháp thúc đẩy ngành tái chế nhựa tại Việt Nam, FiinGroup <Assess>
[3] Báo cáo của WWF (2022), Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tái chế rác thải nhựa tại Việt Nam.
[4] Lê Xuân Đông (2022), Giải pháp thúc đẩy ngành tái chế nhựa tại Việt Nam, FiinGroup <Assess>
[5] Trang web nhựa QMT-JPĐánh giá>
[6] Báo cáo của WWF (2022), Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tái chế rác thải nhựa tại Việt Nam
[7] Kết quả phỏng vấn chuyên sâu BCV
[8] Ngân hàng Thế giới (2021): Nghiên cứu thị trường cho Việt Nam: Cơ hội và rào cản của tuần hoàn nhựa
[9] https://www.imarcgroup.com/vietnam-recycled-plastics-market
[10] VnEconomy (2024). Mỗi năm, Việt Nam thải ra môi trường 1,8 triệu tấn rác thải nhựa. Đánh giá: Đây
[11] Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2020; Nghị định số 02/2022/NĐ-CP và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP
[12] https://kinhtedothi.vn/phai-phat-trien-ben-vung-thi-truong-tai-che-rac-thai-nhua.html
[13] Trần Thu Hương (2021). Nghiên cứu khảo sát thực trạng rác thải nhựa ở Việt Nam. Đánh giá: đây; Quy mô mẫu: 394 hộ gia đình tại 10 tỉnh/thành phố tại Việt Nam.
Công ty B&C
Bài viết này đã được đăng trong chuyên mục “Đọc xu hướng Việt Nam” của ASEAN Economic News. Vui lòng xem bên dưới để biết thêm thông tin
Công ty TNHH B&Company Công ty nghiên cứu thị trường Nhật Bản đầu tiên tại Việt Nam từ năm 2008. Chúng tôi cung cấp đa dạng các dịch vụ bao gồm báo cáo chuyên ngành, phỏng vấn chuyên ngành, khảo sát tiêu dùng, kết nối kinh doanh. Ngoài ra, chúng tôi đã phát triển cơ sở dữ liệu của hơn 900.000 công ty tại Việt Nam, có thể được sử dụng để tìm kiếm hoạt động kinh doanh và phân tích thị trường. Xin vui lòng liên hệ với chúng tôi nếu bạn có bất kỳ thắc mắc hay nhu cầu nào. info@b-company.jp + (84) 28 3910 3913 |
Đọc thêm các bài phân tích khác
[/vc_column_text][/vc_column][/vc_row]
- Tất cả
- Nông nghiệp
- Việc kinh doanh
- Kết nối doanh nghiệp
- Thuộc kinh tế
- Điện & Điện tử
- Năng lượng
- Môi trường
- Thiết bị & Thiết bị
- Triển lãm
- Thực phẩm & Đồ uống
- Sự đầu tư
- Chế tạo