
09/04/2025
Tin tức & Báo cáo mới nhất / Vietnam Briefing
Bình luận: Không có bình luận.
Khi quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu diễn ra nhanh hơn, hydro xanh và amoniac xanh đang nổi lên như những giải pháp then chốt để đạt được mức trung hòa carbon. Việt Nam, với nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo dồi dào, đang định vị mình là một nhân tố chủ chốt trong ngành công nghiệp hydro xanh và amoniac xanh.
Nhu cầu phát triển Hydro xanh và Amoniac xanh tại Việt Nam
Lượng khí thải nhà kính (GHG) hiện tại của Việt Nam gây ra mối đe dọa đáng kể đến các cam kết của quốc gia này đối với mục tiêu Không phát thải ròng vào năm 2050. Theo Cơ sở dữ liệu phát thải của Nghiên cứu khí quyển toàn cầu (EDGAR), Việt Nam đứng thứ 18 trên toàn cầu về lượng khí thải GHG với hơn 524 triệu tấn CO2.2eq vào năm 2023, chiếm 1% khối lượng phát thải toàn cầu[1]. Ngành điện tạo ra hơn 30% tổng lượng khí thải của cả nước, với CAGR là 12% từ năm 2000 đến năm 2023. Ngành này phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt điện than[2], như các báo cáo từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) nêu bật rằng than đá chịu trách nhiệm cho hơn 90% CO22 lượng khí thải vào năm 2022 với tổng lượng khí thải là 127,3 triệu tấn. Với kế hoạch cắt giảm lượng khí thải từ ngành năng lượng xuống chỉ còn 101 triệu tấn mỗi năm theo kịch bản Net-Zero[3], đất nước đang chịu áp lực phải phi cacbon hóa ngành năng lượng và phát triển các giải pháp thay thế cho các nhà máy nhiệt điện than truyền thống.
Lượng khí thải nhà kính của Việt Nam theo từng ngành từ năm 2000 đến năm 2023
Đơn vị: %
Nguồn: B&Company Việt Nam tổng hợp từ EDGARbáo cáo của
Sự phát triển của hydro xanh và amoniac xanh tại Việt Nam đang nổi lên như một thành phần then chốt trong nỗ lực khử cacbon và chuyển đổi sang năng lượng bền vững của đất nước. Hydro xanh, được sản xuất thông qua năng lượng tái tạo và amoniac xanh, được tổng hợp thông qua quy trình Haber-Bosch, đang thu hút sự chú ý như những chất mang năng lượng bền vững tiềm năng được sử dụng trong ngành điện và đốt công nghiệp[4], hai lĩnh vực hàng đầu về phát thải khí nhà kính. Các giải pháp thay thế xanh này cũng có tiềm năng khử cacbon cho các ngành công nghiệp khó giảm thiểu, chẳng hạn như sản xuất xi măng, sắt và thép[5]. Với sản lượng hiện tại là 500 nghìn tấn hydro xám hàng năm cho các ngành công nghiệp này[6], chuyển đổi sang hydro xanh và amoniac xanh có thể cắt giảm lượng khí thải nhà kính của đất nước tới 6,5 triệu tấn CO22eq, tiếp tục thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững của mình[7].
Tình hình phát triển hiện tại và tiềm năng tăng trưởng của Hydro xanh và Amoniac xanh tại Việt Nam
Hydro xanh và amoniac xanh chủ yếu được sử dụng trong các ngành công nghiệp hóa chất và sản xuất, trong khi vai trò của chúng trong lĩnh vực năng lượng vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm.[8]Mặc dù xu hướng này vẫn đúng ở Việt Nam, nhưng hiện nay đất nước này đang có những bước phát triển đáng kể để chuẩn bị cho việc sản xuất và ứng dụng hydro và amoniac xanh như một phần trong các sáng kiến chuyển đổi năng lượng sạch rộng lớn hơn, được thúc đẩy bởi cả các sáng kiến trong nước và xu hướng toàn cầu hướng tới khử cacbon.
Về hydro xanh, Việt Nam là một trong 50 quốc gia đầu tiên công bố Chiến lược phát triển năng lượng hydro vào năm 2024 thông qua Quyết định số 165/QĐ-TTg được ký kết vào năm 2024[9]. Hiện nay, 500 nghìn tấn hydro xám và nâu được sản xuất hàng năm chủ yếu được sử dụng trong ngành lọc dầu (36%) và sản xuất phân bón (64%), chỉ có 0,5% được phân bổ cho các ngành công nghiệp khác như thép, thực phẩm và điện tử.[10].
Theo Quyết định số 165/QD-TTg, việc sản xuất hydro xanh từ các nguồn tái tạo và từ các công nghệ thu giữ/sử dụng carbon (CCS/CCUS) sẽ được ưu tiên, với sản lượng quốc gia từ 100 đến 500 nghìn tấn vào năm 2030 và từ 10 đến 20 triệu tấn vào năm 2050. Các ứng dụng trong tương lai sẽ tập trung vào phát điện (69%) và giao thông vận tải (28%), đánh dấu sự chuyển dịch đáng kể sang các giải pháp năng lượng bền vững. Với sản lượng trong nước mạnh mẽ và nhu cầu toàn cầu tăng cao, việc xuất khẩu hydro xanh là hoàn toàn có thể, với tổng giá trị dự kiến đạt hơn 7,6 triệu tấn vào năm 2050.
Bảng 1: Nhu cầu hydro của Việt Nam vào năm 2030 và 2050 theo các kịch bản khác nhau
2030
Đơn vị: nghìn tấn |
2050 – Đường cơ sở
Đơn vị: nghìn tấn |
2050 – Tăng trưởng
Đơn vị: nghìn tấn |
||||
Tối thiểu | Tối đa | Tối thiểu | Tối đa | Tối thiểu | Tối đa | |
Tiêu thụ trong nước | 120 | 594 | 5,350 | 15,332 | 5,728 | 16,143 |
Sản xuất điện | 90 | 451 | 5,050 | 14,500 | 5,050 | 14,500 |
Sản xuất phân bón | 6 | 28 | 190 | 381 | 338 | 677 |
Sản xuất thép | 3 | 12 | – | 150 | 178 | 533 |
Sản xuất xi măng | – | 33 | 61 | 122 | 111 | 222 |
Lọc dầu | 21 | 64 | 43 | 171 | 43 | 171 |
Hóa chất | – | 6 | 6 | 8 | 8 | 40 |
Xuất khẩu | 10 | 448 | 100 | 4,431 | 171 | 7,628 |
Hàng không | – | 47 | – | 421 | – | 778 |
Vận chuyển hàng hải | 10 | 401 | 100 | 4,010 | 171 | 6,850 |
Tổng cộng | 140 | 1,042 | 5,450 | 19,763 | 5,899 | 23,771 |
Nguồn: Nhóm Đối tác Năng lượng Việt Nam
Đối với amoniac xanh, nhu cầu hiện tại ở Việt Nam tập trung vào sản xuất phân bón. Tuy nhiên, theo Quyết định số 500/QĐ-TTg về Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được ký vào năm 2023, amoniac sẽ đóng vai trò quan trọng như một nhiên liệu thay thế cho các nhà máy điện than. Đến năm 2050, tất cả các nhà máy điện than sẽ chuyển đổi hoàn toàn sang sử dụng sinh khối và amoniac, với tổng công suất từ 25.632 MW đến 32.432 MW, chiếm 4,5% đến 6,6% tổng công suất năng lượng của cả nước[11]. Sự thay đổi này sẽ thúc đẩy nhu cầu amoniac từ 1,967 triệu tấn vào năm 2025 lên 48,164 triệu tấn vào năm 2050, tương ứng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 14%.
Forecasted demand for ammonia in Vietnam from 2025 to 2050
Đơn vị: nghìn tấn
Nguồn: PVN
Với nhu cầu trong nước tăng cao và triển vọng xuất khẩu, Việt Nam đã thu hút nhiều dự án sản xuất hydro xanh và amoniac xanh từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
– Nhà máy sản xuất Hydrogen xanh Trà Vinh Nhóm giải pháp xanh là nhà máy sản xuất hydro đầu tiên của Việt Nam, khởi công xây dựng vào năm 2023. Dự án dự kiến đi vào hoạt động vào cuối năm 2026, có khả năng sản xuất 575 tấn amoniac xanh mỗi ngày bằng năng lượng tái tạo như năng lượng gió và năng lượng mặt trời[12].
– Năm 2024, Tập đoàn Hoa Điện Trung Quốc, một doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc, đang thảo luận với công ty Việt Nam Công ty CP Minh Quang khoảng $2,39 tỷ nhà máy hydro xanh tại tỉnh Quảng Trị miền Trung. Dự án sẽ có sản lượng hàng năm là 60.000 tấn hydro xanh sử dụng năng lượng mặt trời[13].
– Công ty Việt Nam Tập đoàn Phú Mỹ cũng đang để mắt đến một dự án phức hợp trị giá 825 triệu đô la bao gồm một cơ sở sản xuất hydro, một cảng tổng hợp và một khu công nghiệp tại Bình Định. Sản lượng hydro xanh của dự án dự kiến là 20.000 tấn từ năm 2026 đến năm 2030 và tăng lên 160.000 tấn từ năm 2030 đến năm 2035[14].
Chính sách của Chính phủ về phát triển Hydro xanh và Amoniac xanh
Chính phủ Việt Nam đã có những bước đi quan trọng hướng tới thúc đẩy phát triển hydro xanh và amoniac xanh.
(1) Nghị quyết số 55-NQ/ của Bộ Chính trịTW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ký kết năm 2020 đã nêu bật tầm quan trọng của các nguồn năng lượng tái tạo trong lộ trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam. Tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng cung cấp năng lượng sơ cấp sẽ tăng lên từ 15% đến 20% vào năm 2030 và từ 25% đến 30% vào năm 2045[15].
(2) Quyết định số 500/QĐ-TTg đã ký vào năm 2023 và Quyết định số 165/QĐ-TTg được ký kết vào năm 2024, thúc đẩy nhu cầu trong nước về hydro xanh và amoniac xanh thông qua các ứng dụng trong ngành điện, giao thông vận tải và ngành sản xuất. Quyết định số 165/QD-TTg cũng nêu bật nhu cầu lưu trữ, vận chuyển và phân phối hydro hợp lý, cũng như các cơ hội xuất khẩu.
(3) Nghị định số 58/2025/NĐ-CP việc xây dựng Luật Điện lực liên quan đến Phát triển Điện năng lượng tái tạo và Điện năng lượng mới được ký kết vào năm 2025 cho thấy cam kết của quốc gia đối với việc phát triển các nguồn năng lượng bền vững. Theo Nghị định, các dự án sản xuất điện sử dụng hydro xanh 100%, amoniac xanh hoặc kết hợp của chúng có thể được miễn thuế diện tích biển và tiền sử dụng đất trong tối đa 3 năm trong giai đoạn xây dựng cơ bản, với mức giảm tiếp theo. Các dự án cũng được hưởng lợi từ sản lượng điện tối thiểu theo hợp đồng dài hạn là 70% trong thời gian trả nợ gốc và tối đa 12 năm, giúp rút ngắn giai đoạn vận hành ban đầu của các nhà máy điện này[16].
Cơ hội và thách thức
Ngành công nghiệp hydro và amoniac xanh của Việt Nam đang trên bờ vực mở rộng đáng kể. Chính phủ đã thể hiện sự hỗ trợ đáng kể cho lĩnh vực này bằng các chính sách mới hỗ trợ phát triển hydro xanh và amoniac xanh thông qua việc chuyển đổi nguồn điện, ưu đãi đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng để lưu trữ, vận chuyển và xuất khẩu. Đường bờ biển dài của Việt Nam có các nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng gió và mặt trời, có thể được khai thác để sản xuất hydro giá rẻ. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, lĩnh vực này mang lại nhiều cơ hội đầu tư vì dự kiến đất nước sẽ cần tới 57,1 tỷ đô la Mỹ trong giai đoạn 2021-2025 và 77,6 tỷ đô la Mỹ trong giai đoạn 2026-2030 để phát triển các nguồn cung cấp năng lượng và hệ thống phân phối[17].
Tuy nhiên, việc phát triển hydro xanh và amoniac xanh ở Việt Nam đang phải đối mặt với những rào cản đáng kể. Sự hoài nghi về tính khả thi của hydro xanh vẫn còn vì sản xuất hydro tái tạo có chi phí cao hơn từ 2 đến 12 lần so với sản xuất truyền thống sử dụng các nguồn không tái tạo[18]Hơn nữa, Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ nước ngoài, điều này có thể cản trở sự tăng trưởng trong nước của ngành.
Kết luận
Việt Nam đang ở vị thế thuận lợi để trở thành quốc gia dẫn đầu trong sản xuất hydro và amoniac xanh, với năng lực năng lượng tái tạo và vị trí địa lý chiến lược. Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức, nhưng các khoản đầu tư liên tục, hỗ trợ chính sách và phát triển cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy ngành này phát triển.
[1] EDGAR. Lượng khí thải GHG của tất cả các quốc gia trên thế giới<Đánh giá>
[2] EVN. Tình hình hoạt động 6 tháng đầu năm 2024; mục tiêu, nhiệm vụ tháng 7 và các tháng còn lại năm 2024<Đánh giá>
[3] EREA & DEA. Báo cáo triển vọng năng lượng Việt Nam, Đường tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (2024)<Đánh giá>
[4] PVN. Tích hợp Hydro xanh và Amoniac xanh vào chuỗi giá trị hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam<Đánh giá>
[5] EREA & DEA. Báo cáo triển vọng năng lượng Việt Nam, Đường tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (2024)<Đánh giá>
[6] Năng lượng Việt Nam. Báo cáo về việc thực hiện Chiến lược năng lượng hydro tại Việt Nam<Đánh giá>
[7] Tính toán của B&Company từ khối lượng sản xuất hydro và cường độ phát thải trung bình toàn cầu của sản xuất hydro vào năm 2023<Đánh giá>
[8] Năng lượng Việt Nam. Báo cáo về việc thực hiện Chiến lược năng lượng hydro tại Việt Nam<Đánh giá>
[9] TVPL. Quyết định số 165/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng hydro của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050<Đánh giá>
[10] PVN. Tích hợp Hydro xanh và Amoniac xanh vào chuỗi giá trị hoạt động của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam<Đánh giá>
[11] Cổng thông tin điện tử Chính phủ. Quyết định số 500/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030 và tầm nhìn đến năm 2050<Đánh giá>
[12] Green Solutions Group. Các dự án của chúng tôi – Nhà máy sản xuất Hydrogen xanh Trà Vinh<Đánh giá>
[13] Các nhà đầu tư. SOE Trung Quốc Huadian có kế hoạch xây dựng nhà máy hydro xanh trị giá $2,4 tỷ tại miền Trung Việt Nam<Đánh giá>
[14] Các nhà đầu tư. Tập đoàn Phú Mỹ lên kế hoạch xây dựng nhà máy hydro xanh 2.000 MW tại miền Trung Việt Nam<Đánh giá>
[15] Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045<Đánh giá>
[16] Cổng thông tin điện tử Chính phủ. Nghị định số 58/2025/NĐ-CP hướng dẫn Luật Điện lực về phát triển nguồn điện năng lượng tái tạo và nguồn điện năng lượng mới<Đánh giá>
[17] Cổng thông tin điện tử Chính phủ. Quyết định số 262/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050<Đánh giá>
[18] Tính đến thời điểm hiện tại, giá hydro truyền thống được sản xuất tại Việt Nam có giá từ 1 đến 2,5 đô la Mỹ/kg, trong khi hydro xanh (được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo) có Chi phí hydro bình quân (LCOH) dao động từ 5 đến 12 đô la Mỹ/kg.<Đánh giá>
Công ty B&Company
Công ty Nhật Bản đầu tiên chuyên về nghiên cứu thị trường tại Việt Nam từ năm 2008. Chúng tôi cung cấp nhiều dịch vụ bao gồm báo cáo ngành, phỏng vấn ngành, khảo sát người tiêu dùng, kết nối doanh nghiệp. Ngoài ra, chúng tôi gần đây đã phát triển cơ sở dữ liệu gồm hơn 900.000 công ty tại Việt Nam, có thể được sử dụng để tìm kiếm đối tác và phân tích thị trường. Vui lòng liên hệ với chúng tôi nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào. info@b-company.jp + (84) 28 3910 3913 |