
15/01/2016
Đánh giá ngành
Bình luận: Không có bình luận.
08-01-2016
Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, nhu cầu về dịch vụ truyền hình trả tiền tại Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đều đặn trong bối cảnh dân số và mức thu nhập ngày càng tăng.
Theo báo cáo tổng kết mới nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2015, tổng doanh thu từ dịch vụ truyền hình trả tiền đạt 458 triệu USD với 9,9 triệu thuê bao, đạt mục tiêu phát triển 1/3 hộ gia đình sử dụng dịch vụ truyền hình trả tiền của Thủ tướng Chính phủ đến năm nay. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014, doanh thu từ thuê bao truyền hình trả tiền đã trải qua CAGR khoảng 22%. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã thực thi 4 chính sách chính bao gồm tăng cường thông tin công cộng, hoàn thiện cơ chế & khuôn khổ pháp lý, huy động vốn đầu tư và nâng cao chất lượng dịch vụ để tạo môi trường thuận lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ, để 60 - 70% hộ gia đình tại Việt Nam sẽ sử dụng dịch vụ truyền hình trả tiền vào năm 2020.
Tuy nhiên, thị trường hiện nay đã lao vào cuộc cạnh tranh giá khốc liệt. Mức phí thuê bao trung bình của dịch vụ truyền hình trả tiền tại Việt Nam hiện đang ở mức thấp nhất trong toàn khu vực Đông Nam Á. Cụ thể, doanh thu trung bình trên một thuê bao (ARPU) tại Việt Nam là từ 4-5 USD/tháng, trong khi mức phí ở các nước Đông Nam Á khác là 9-32 USD/tháng. Chiến lược cạnh tranh về giá đã được các công ty lớn trong ngành sử dụng để giết chết các nhà cung cấp vừa và nhỏ và giành thị phần. Năm 2011, có 55 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền, kể từ đó số lượng nhà cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền dao động nhiều hơn, nhiều công ty tham gia và nhiều công ty rời đi, và tính đến cuối năm 2015, tổng số chỉ còn 31 nhà cung cấp. Sự cạnh tranh về giá quá mức được cho là đã cản trở sự phát triển bền vững của thị trường này.
Các dịch vụ truyền hình trả tiền chính hiện nay tại Việt Nam bao gồm truyền hình số mặt đất, truyền hình giao thức internet (IPTV), truyền hình di động, truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh; trong đó truyền hình cáp là loại hình dịch vụ truyền hình trả tiền đầu tiên hoạt động tại Việt Nam và cũng chiếm 80,8% thuê bao truyền hình trả tiền (2015). Truyền hình vệ tinh có xu hướng tăng thị phần đều đặn, với số lượng thuê bao đạt 1,4 triệu vào năm 2015. Trong phân khúc này, K+ mà Tập đoàn truyền hình Pháp Canal Plus đầu tư là nhà cung cấp nổi bật và cũng là doanh nghiệp nước ngoài duy nhất. Mặc dù dịch vụ của mình tương đối đắt tiền, thị phần của nó đã tăng nhanh chóng bằng cách chủ yếu phát sóng Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và các giải bóng đá hàng đầu thế giới khác tại Việt Nam, vượt qua 2 đối thủ cạnh tranh chính là VTC và AVG. 60% thuê bao truyền hình vệ tinh vào năm 2013 được công ty chiếm giữ.
Mặt khác, truyền hình trả tiền mặt đất kỹ thuật số chịu ảnh hưởng bởi mục tiêu số hóa toàn diện của chính phủ vào năm 2020. Với việc ngừng phát sóng truyền hình analog và chuyển đổi dần sang truyền hình kỹ thuật số mặt đất miễn phí, phân khúc truyền hình trả tiền này đang thu hẹp do các nhà cung cấp dịch vụ chuyển dịch vụ của họ sang các loại hình phát sóng khác. Mặt khác, IPTV là một trong những chiến lược thu hút khách hàng của các nhà cung cấp Internet. Năm 2013, số lượng thuê bao IPTV là 1,1 triệu thuê bao, trong đó MyTV của VNPT chiếm 80%. VNPT là tổng công ty đầu tiên tại Việt Nam triển khai IPTV, cho phép người dùng lựa chọn nhiều kênh khác nhau với mức giá khoảng 55 USD/năm. IPTV, đặc biệt là với dịch vụ video theo yêu cầu (VoD), là một thị trường có tiềm năng tăng trưởng mạnh trong tương lai, thậm chí là trên toàn cầu; tuy nhiên, các nhà cung cấp IPTV cung cấp dịch vụ của họ với chi phí rất thấp do sử dụng nội dung không có bản quyền vì hình phạt của chính phủ đối với hành vi vi phạm bản quyền không đủ mạnh.
Thị trường truyền hình trả tiền đang trên đà tăng trưởng trong bối cảnh dân số và mức thu nhập ngày càng tăng, và được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng trong tương lai. Tuy nhiên, nếu vấn đề cạnh tranh quá mức và vi phạm bản quyền không được giải quyết, sự tăng trưởng sẽ dừng lại sớm.
B&Company Việt Nam – Ngô Quỳnh Hoa